sáng kiến kinh nghiệm lớp 3
skkn kỹ năng phép tính lớp 3
chúng tôi đã cho ra mắt những thầy cô nhiều skkn đạt giải có giá trị sử dụng vào trường học các cấp mục đích các thầy cô trao đổi, học hỏi, chỉnh sửa cho phù hợp với đặc thù của đơn vị mình. thời điểm số báo này cộng đồng xin giới thiệu một SKKN được áp dụng tốt ở trường học của Cô Dương Thị Thu. Giáo viên trường Tiểu học Ngọc Hà - Ba Đình với đề tài “Phát triển kỹ năng thực hiện phép tính ở lớp 3 lĩnh vực toán học”. Cô Dương Thị Thu đã đạt giáo viên giỏi cấp quận khá nhiều năm thời điểm ngành dạy học sinh môn toán, có rất nhiều SKKN đạt giải cấp thành phố Tác giả đã vận dụng phương pháp đổi mới vào lúc giảng dạy, khuyến kích sinh viên tư duy độc đáo hiểu nắm được cách thức học toán. dưới đây cộng đồng xin cho ra mắt tóm tắt SKKN của tác giả:
1. GIỚI THIỆU sáng kiến kinh nghiệm
Học toán và giải toán có vị trí rất quan trọng trong sự kiện toán tiểu học, do đó học sinh cần phải học và có được cách thức học tập và có cách thức giải toán độc đáo Muốn vậy học viên cần sẽ được phát triển kỹ năng thực hiện phép tính, vận dụng cách thức giải toán một kiểu thú vị nhanh nhất, hay nhất tạo thói quen thành thạo và xuất hiện tư duy và trí thông minh cho trẻ.
2. MỤC ĐÍNH sáng kiến kinh nghiệm có tác dụng giúp học sinh tính nhanh chính xác, tạo thói quen cho học viên biết kiểu so sánh, nhận xét trước khi tìm ra cách giải và chú ý giải bằng khá nhiều kiểu nhanh hơn, hoặc hơn. Từ đó học viên ham muốn và hứng thú với môn toán.
3. Ý TƯỞNG VIẾT sáng kiến kinh nghiệm
Dựa trên kiến thức cơ bản sinh viên đã sở hữu được, giáo viên ra mắt nhiều bài toán từ dễ đến khó phù phù hợp với trình độ học viên ra mắt nhiều dạng toán đòi hỏi tư duy trìu tượng gắn liền với trò trơi cho phép giup sinh viên lĩnh hội được tri thức một những mền dẻo, từ đó phát triển tư duy học sinh ví dụ như
Dạng bài tập điền số
Trước tiên học viên làm bài giản đơn 17 + = 20
Khi học sinh đã giải được giáo viên đưa ra bài khác
17 + ………. -6 =13
ở bài này ta tìm ngược từ kết quả đi lên
số nào trừ 6 bằng 13 số 19
17 + = 19 từ đó tìm ra số cần điềm
- Dạng phức tạp hơn: Điền số vào ô trống cho phép tổng các số thời điểm 3 ô liên nhau bằng 20
Sau khi học viên tìm được 6 đâu
Nhận xét các số vào lúc 3 ô liền nhau thứ nhất với nhiều số thời điểm 3 ô liền nhau thứ 2 đều giống nhau là các số 5,6,9 được lặp lại.
Từ đó học viên tìm được số ở nhiều ô cuối cùng
Dạng bài tập tính nhanh
Tính nhanh kết quả biểu thức
1 – 2 + 3 – 4 + 5 – 6 + 7 – 8 + 9 = cách 1: học viên phải biết ghép tất cả nhiều số mang cộng với nhau và trừ với nhau:
(1+9) + (3+7) - (2+8) - (4+6) + 5 =
10 + 10 - 10 - 10 + 5 =
20 - 20 + 5 = 5 cách 2. học viên có khả năng tìm kết quả bằng kiểu (9-8) + (7-6) + (5-4) + (3-2) + 1 =
1 + 1 + 1 + 1 + 1 = 5
Tính giá trị biểu thức
18 x 3 +12 x 3 = cách 1: học viên chú ý tìm kết quả theo cách thông thường (nhân trước, cộng sau)
18 x 3 + 12 x 3 =
54 + 36 = 90 kiểu 2:
18 x 3 + 12 x 3 =
3 x (18 + 12) =
3 x 30 = 90 trong quá trình dạy về biểu thức ngoài việc làm cho học viên nắm vững nhiều nguyên tắc tính giá trị biểu thức, giáo viên còn giúp sinh viên củng cố lại kỹ năng tính nhẩm, biết tìm ra cách giải hợp lý để ý so sánh, nhận xét nhằm khiểm tra lại kết quả. xác định ở tiết luyện tập về tính giá trị biểu thức ví dụ như : Biểu thức 1 (421 – 200) x 2 =
Sau khi học viên đã tìm ra kết quả, giáo viên đòi hỏi sinh viên nhận xét xem phét tính thời điểm ngoặc có gì đặc biệt
Tìm nhanh kết quả bằng cách nhẩm : Lấy 400 – 200 = 200 còn hàng chục và hàng đơn vị giữ nguyên
Vậy: 421 -200 = 221
Biểu thức 2: 90 + 9 : 9 =
Có bạn lấy 90 + 9 = 99 99 : 9 = 11
Làm như vậy đúng hoặc sai? Vì sao? sinh viên Làm như vậy là sai vì biểu thức có cộng và chia phải làm chia trước, cộng sau: ra mắt 2 biểu thức : 48 x 4 : 2 =
và 48 x (4 : 2) =
Có nhận xét gì về 2 biểu thức trên
- Tại sao 2 biểu thức trên về số và dấu phép tính như nhau mà kết quả lại khác nhau
(Vì thứ tự thực hiện các phép tính ở 2 biểu thức này khác nhau)
4. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
Sau 1 năm thực hiện giảng dạy tôi nhận ra sinh viên vừa sở hữu chắc được kiến thức cơ bản vừa dựng lên được kỹ năng thực hiện phép tính, rèn cho sinh viên có có khả năng suy nghĩ độc lập, che khuất cách nghĩ dập khuôn, máy móc, đồng thời xây dựng lòng say đắm tìm tòi mới mẽ của sinh viên ở mức độ khác nhau.
5. Ý NGHĨA THỰC TIỄN sáng kiến kinh nghiệm
Với học sinh tiểu học việc kích thích sự say mê ham học toán là tiền đề rất quan trọng cho trẻ thời điểm quá trình xây dựng hành trang kiến thức để bước đời, mục đích cho trẻ có được sự say mê sự ham học toán thì giáo viên giảng dạy đóng vai trò rất quan trọng là làm thế như thế nào để giúp học sinh có được sự say mê đó. Việc làm cho học sinh phát triển kỹ năng thực hiện nhiều phép tính đã mang lại kết quả: sinh viên vừa sở hữu chắc được kiến thức cơ bản vừa hoạt động được kỹ năng thực hiện phép tính, rèn cho sinh viên có có khả năng suy nghĩ độc lập, tạo thói quen thành thạo và mở rộng tư duy và trí thông minh cho trẻ.
Một cách khác nữa, khi dạy thì giáo viên cần phát huy học viên có thói quen đặt vấn đề “tại sao” và tự suy nghĩ nhằm trả lời các câu hỏi đó. thời điểm nhiều tình huống giáo viên còn có thể đặt ra câu hỏi “Tại sao làm như vậy? Có kiểu nào khác không? Có cách nào hay hơn không?”. nhiều câu hỏi của giáo viên như “tại sao”, “vì sao” đã thôi thúc sinh viên phải suy nghĩ tìm tòi giải muốn đây là chỗ dựa cho phép lauching cách làm hoặc kiểu giải sự lựa chọn trong vốn kiến thức đã học để trả lời.
Khi dạy toán cho học sinh lớp 2, việc tập cho sinh viên có thói quen đặt ra câu hỏi “tại sao” và tìm kiểu giải thích làm cho vấn đề được sáng tỏ là nhiệm vụ của người giáo viên. Từ thói quen trong suy nghĩ ta hình thành và rèn luyện thói quen đó trong diễn đạt, vào lúc trình bày.
Qua skkn các năm giảng dạy ở tiểu học tôi nhận thấy sinh viên có các tiến bộ. Với cách dạy và học trên học sinh chăm chú say đắm học toán, những em hứng thú với nhiều phép toán, giải nhiều bài toán có nội khác nhau. Nhờ điều đó mà học viên đã tích tụ cực, chủ động tìm tòi, mới mẽ xây dựng kiến thức của bài học. Do vậy mà sinh viên nắm bài nhanh, nhớ kiến thức lâu hơn, chắc hơn và tự tin, không khí tiết học trở nên sôi nổi, không gò bó, học sinh được rất bộc lộ dùng khả năng của mình. Từ đó học viên có hứng thú học toán, tạo thành thói quen tự suy nghĩ, chủ động làm bài mục đích tìm ra cách giải hoặc và nhanh nhất. môn toán|
chúng tôi đã cho ra mắt những thầy cô nhiều sáng kiến kinh nghiệm đạt giải có giá trị áp dụng vào trường học những cấp cho phép nhiều thầy cô trao đổi, học hỏi, chỉnh sửa cho phù hợp với đặc thù của đơn vị mình. vào lúc số báo này chúng ta xin giới thiệu một SKKN được sử dụng tốt ở trường học của Cô Dương Thị Thu. Giáo viên trường Tiểu học Ngọc Hà - Ba Đình với đề tài “Phát triển kỹ năng thực hiện phép tính ở lớp 3 lĩnh vực toán học”. Cô Dương Thị Thu đã đạt giáo viên giỏi cấp quận khá nhiều năm trong ngành dạy học sinh môn toán, có rất nhiều SKKN đạt giải cấp tiểu bang Tác giả đã vận dụng phương pháp đổi vừa trong giảng dạy, khuyến kích sinh viên tư duy sáng tạo hiểu sở hữu được phương pháp học toán. dưới đây mọi người xin giới thiệu tóm tắt SKKN của tác giả:
1. cho ra mắt sáng kiến kinh nghiệm
Học toán và giải toán có vị trí rất quan trọng trong sự kiện toán tiểu học, do đó sinh viên cần phải học và có được phương pháp học tập và có cách thức giải toán khác lạ Muốn vậy sinh viên cần phải được dựng lên kỹ năng thực hiện phép tính, vận dụng cách thức giải toán một cách tốt nhất nhanh nhất, nên nhất tạo thói quen thành thạo và mở rộng tư duy và trí thông minh cho trẻ.
2. MỤC ĐÍNH sáng kiến kinh nghiệm có tác dụng giúp học viên tính nhanh chính xác, tạo thói quen cho sinh viên để ý kiểu so sánh, nhận xét trước khi tìm ra cách giải và để ý giải bằng những kiểu nhanh hơn, nên hơn. Từ đó sinh viên ham thích và hứng thú với môn toán.
3. Ý TƯỞNG VIẾT skkn
Dựa trên kiến thức cơ bản học sinh đã sở hữu được, giáo viên lauching những bài toán từ dễ đến không dễ phù phù hợp với trình độ học viên ra mắt những dạng toán yêu cầu tư duy trìu tượng gắn liền với trò trơi nhằm giup học sinh lĩnh hội được tri thức một nhiều mền dẻo, từ đó mở rộng tư duy học sinh ví dụ như
Dạng bài tập điền số
Trước tiên học sinh làm bài giản đơn 17 + = 20
Khi học sinh đã giải được giáo viên tung ra bài khác
17 + ………. -6 =13
ở bài này ta tìm ngược từ kết quả đi lên
số như thế nào trừ 6 bằng 13 số 19
17 + = 19 từ đó tìm ra số cần điềm
- Dạng phức tạp hơn: Điền số vào ô trống nhằm tổng những số vào lúc 3 ô liên nhau bằng 20
Sau khi học viên tìm được 6 đâu
Nhận xét những số trong 3 ô liền nhau thứ nhất với nhiều số thời điểm 3 ô liền nhau thứ 2 đều giống nhau là các số 5,6,9 được lặp lại.
Từ đó học viên tìm được số ở các ô còn lại
Dạng bài tập tính nhanh
Tính nhanh kết quả biểu thức
1 – 2 + 3 – 4 + 5 – 6 + 7 – 8 + 9 = kiểu 1: học viên phải chú ý ghép tất cả những số đem cộng với nhau và trừ với nhau:
(1+9) + (3+7) - (2+8) - (4+6) + 5 =
10 + 10 - 10 - 10 + 5 =
20 - 20 + 5 = 5 cách 2. học sinh có khả năng tìm kết quả bằng kiểu (9-8) + (7-6) + (5-4) + (3-2) + 1 =
1 + 1 + 1 + 1 + 1 = 5
Tính giá trị biểu thức
18 x 3 +12 x 3 = cách 1: sinh viên biết tìm kết quả theo kiểu thông thông thường (nhân trước, cộng sau)
18 x 3 + 12 x 3 =
54 + 36 = 90 kiểu 2:
18 x 3 + 12 x 3 =
3 x (18 + 12) =
3 x 30 = 90 vào lúc quá trình dạy về biểu thức ngoài việc có tác dụng giúp sinh viên sở hữu vững nhiều quy tắc tính giá trị biểu thức, giáo viên còn làm cho sinh viên củng cố lại kỹ năng tính nhẩm, chú ý tìm ra kiểu giải phải chăng để ý so sánh, nhận xét để khiểm tra lại kết quả. nào đó ở tiết luyện tập về tính giá trị biểu thức ví dụ : Biểu thức 1 (421 – 200) x 2 =
Sau khi học sinh đã tìm ra kết quả, giáo viên đòi hỏi sinh viên nhận xét xem phét tính thời điểm ngoặc có gì khác biệt
Tìm nhanh kết quả bằng cách nhẩm : Lấy 400 – 200 = 200 còn hàng chục và hàng đơn vị giữ nguyên
Vậy: 421 -200 = 221
Biểu thức 2: 90 + 9 : 9 =
Có bạn lấy 90 + 9 = 99 99 : 9 = 11
Làm như vậy đúng hoặc sai? Vì sao? sinh viên Làm như vậy là sai vì biểu thức có cộng và chia phải làm chia trước, cộng sau: tung ra 2 biểu thức : 48 x 4 : 2 =
và 48 x (4 : 2) =
Có nhận xét gì về 2 biểu thức trên
- Tại sao 2 biểu thức trên về số và dấu phép tính như nhau mà kết quả lại khác nhau
(Vì thứ tự thực hiện các phép tính ở 2 biểu thức này khác nhau)
4. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
Sau 1 năm thực hiện giảng dạy tôi nhận thấy học sinh vừa sở hữu chắc được kiến thức cơ bản vừa hoạt động được kỹ năng thực hiện phép tính, rèn cho học viên có có khả năng suy nghĩ độc lập, che dấu kiểu nghĩ dập khuôn, máy móc, đồng thời xây dựng lòng mê say tìm tòi độc đáo của học sinh ở mức độ khác nhau.
5. Ý NGHĨA THỰC TIỄN skkn
Với học sinh tiểu học việc kích thích sự say mê ham học toán là tiền đề rất quan trọng cho trẻ vào lúc quá trình xây dựng hành trang kiến thức nhằm bước đời, cho phép cho trẻ có được sự mê say sự ham học toán thì giáo viên giảng dạy đóng vai trò rất quan trọng là làm thế như thế nào cho phép có tác dụng giúp học sinh có được sự mê say đó. Việc làm cho học viên mở rộng kỹ năng thực hiện các phép tính đã đem lại kết quả: học sinh vừa sở hữu chắc được kiến thức cơ bản vừa mở rộng được kỹ năng thực hiện phép tính, rèn cho sinh viên có có khả năng suy nghĩ độc lập, tạo thói quen thành thạo và hoạt động tư duy và trí thông minh cho trẻ.
Một cách khác nữa, khi dạy thì giáo viên cần phát huy học sinh có thói quen đặt câu hỏi “tại sao” và tự suy nghĩ mục đích trả lời những câu hỏi đó. vào lúc khá nhiều tình huống giáo viên còn có khả năng đặt ra câu hỏi “Tại sao làm như vậy? Có cách nào khác không? Có cách như thế nào hoặc hơn không?”. các câu hỏi của giáo viên như “tại sao”, “vì sao” đã thôi thúc sinh viên phải suy nghĩ tìm tòi giải muốn đó chính là chỗ dựa nhằm ra mắt cách làm hoặc cách giải sự gợi ý thời điểm vốn kiến thức đã học nhằm trả lời.
Khi dạy toán cho học viên lớp 2, việc tập cho sinh viên có thói quen đặt ra câu hỏi “tại sao” và tìm cách giải mê làm cho vấn đề được sáng tỏ là nhiệm vụ của người giáo viên. Từ thói quen thời điểm suy nghĩ ta hình thành và rèn luyện thói quen đó vào lúc diễn đạt, vào lúc trình bày.
Qua skkn những năm giảng dạy ở tiểu học tôi biết rằng học sinh có rất nhiều tiến bộ. Với kiểu dạy và học trên học sinh chăm chú mê say học toán, các em hứng thú với những phép toán, giải nhiều bài toán có nội khác nhau. Nhờ điều đó mà sinh viên đã tích tụ cực, chủ động tìm tòi, độc đáo xây dựng kiến thức của bài học. Do vậy mà học viên nắm bài nhanh, nhớ kiến thức lâu hơn, chắc hơn và tự tin, không khí tiết học trở hay sôi nổi, không gò bó, học sinh được thực tế bộc lộ hết khả năng của mình. Từ đó sinh viên có hứng thú học toán, tạo thành thói quen tự suy nghĩ, chủ động làm bài nhằm tìm ra kiểu giải hay và nhanh nhất.
0 nhận xét: